Gần đây, JAMA Oncology (IF 33.012) đã công bố một kết quả nghiên cứu quan trọng [1] của nhóm gồm Giáo sư Cai Guo-ring từ Bệnh viện Ung thư thuộc Đại học Fudan và Giáo sư Wang Jing từ Bệnh viện Renji thuộc Khoa Y, Đại học Giao thông Thượng Hải, hợp tác với KUNYUAN BIOLOGY: “Phát hiện sớm bệnh lý phân tử còn sót lại và phân tầng nguy cơ ung thư đại trực tràng giai đoạn I đến III thông qua metyl hóa DNA khối u tuần hoàn và phân tầng nguy cơ” (Early Detection of Molecular Residual Disease and Risk Stratification). Nghiên cứu này là nghiên cứu đa trung tâm đầu tiên trên thế giới ứng dụng công nghệ metyl hóa đa gen ctDNA máu dựa trên PCR để dự đoán và theo dõi tái phát ung thư đại trực tràng, cung cấp một lộ trình kỹ thuật và giải pháp hiệu quả hơn về mặt chi phí so với các phương pháp công nghệ phát hiện MRD hiện có, dự kiến sẽ cải thiện đáng kể việc sử dụng lâm sàng để dự đoán và theo dõi tái phát ung thư đại trực tràng, đồng thời cải thiện đáng kể khả năng sống sót và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Nghiên cứu này cũng được tạp chí và ban biên tập đánh giá cao, và được liệt kê là bài báo khuyến nghị quan trọng trong số báo này. Giáo sư Juan Ruiz-Bañobre từ Tây Ban Nha và Giáo sư Ajay Goel từ Hoa Kỳ đã được mời đến để đánh giá. Nghiên cứu cũng được GenomeWeb, một đơn vị truyền thông y sinh hàng đầu tại Hoa Kỳ, đưa tin.

Ung thư đại trực tràng (CRC) là một khối u ác tính phổ biến của đường tiêu hóa ở Trung Quốc. Dữ liệu năm 2020 của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) cho thấy 555.000 ca mắc mới ở Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 thế giới, với tỷ lệ mắc bệnh tăng lên vị trí thứ hai trong số các bệnh ung thư phổ biến ở Trung Quốc; 286.000 ca tử vong chiếm khoảng 1/3 thế giới, xếp hạng là nguyên nhân gây tử vong do ung thư phổ biến thứ năm ở Trung Quốc. Nguyên nhân gây tử vong thứ năm ở Trung Quốc. Đáng chú ý là trong số những bệnh nhân được chẩn đoán, giai đoạn TNM I, II, III và IV lần lượt là 18,6%, 42,5%, 30,7% và 8,2%. Hơn 80% bệnh nhân ở giai đoạn giữa và giai đoạn cuối, và 44% trong số họ có di căn xa đồng thời hoặc dị thời đến gan và phổi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thời gian sống, gây nguy hiểm cho sức khỏe của cư dân của chúng tôi và gây gánh nặng kinh tế xã hội lớn. Theo thống kê của Trung tâm Ung thư Quốc gia, chi phí điều trị ung thư đại trực tràng trung bình hàng năm tại Trung Quốc tăng khoảng 6,9% đến 9,2%, chi phí chăm sóc sức khỏe cá nhân của bệnh nhân trong vòng một năm sau khi chẩn đoán có thể chiếm tới 60% thu nhập gia đình. Bệnh nhân ung thư đang phải chịu đựng căn bệnh này và cũng chịu áp lực kinh tế rất lớn [2].
90% các tổn thương ung thư đại trực tràng có thể được loại bỏ bằng phẫu thuật, và khối u được phát hiện càng sớm thì tỷ lệ sống sót sau 5 năm sau phẫu thuật cắt bỏ triệt để càng cao, nhưng tỷ lệ tái phát chung sau phẫu thuật cắt bỏ triệt để vẫn ở mức khoảng 30%. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm của ung thư đại trực tràng ở người dân Trung Quốc lần lượt là 90,1%, 72,6%, 53,8% và 10,4% ở giai đoạn I, II, III và IV.
Bệnh tồn dư tối thiểu (MRD) là nguyên nhân chính gây tái phát khối u sau điều trị triệt để. Trong những năm gần đây, công nghệ phát hiện MRD đối với khối u rắn đã phát triển nhanh chóng, và một số nghiên cứu quan sát và can thiệp quy mô lớn đã xác nhận rằng tình trạng MRD sau phẫu thuật có thể chỉ ra nguy cơ tái phát ung thư đại trực tràng sau phẫu thuật. Xét nghiệm ctDNA có ưu điểm là không xâm lấn, đơn giản, nhanh chóng, khả năng tiếp cận mẫu cao và khắc phục được tính không đồng nhất của khối u.
Hướng dẫn của NCCN Hoa Kỳ về ung thư đại tràng và hướng dẫn của CSCO Trung Quốc về ung thư đại trực tràng đều nêu rõ rằng để xác định nguy cơ tái phát sau phẫu thuật và lựa chọn hóa trị bổ trợ trong ung thư đại tràng, xét nghiệm ctDNA có thể cung cấp thông tin tiên lượng và dự đoán, hỗ trợ quyết định điều trị bổ trợ cho bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II hoặc III. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu hiện có đều tập trung vào đột biến ctDNA dựa trên công nghệ giải trình tự thông lượng cao (NGS), một quy trình phức tạp, thời gian chuẩn bị lâu và chi phí cao [3], thiếu tính khái quát hóa và tỷ lệ mắc bệnh thấp ở bệnh nhân ung thư.
Đối với bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn III, chi phí theo dõi động lực ctDNA dựa trên NGS lên đến 10.000 đô la cho một lần khám và thời gian chờ lên đến hai tuần. Với xét nghiệm methyl hóa đa gen trong nghiên cứu này, ColonAiQ®, bệnh nhân có thể theo dõi động lực ctDNA với chi phí chỉ bằng một phần mười và nhận được báo cáo chỉ trong vòng hai ngày.
Theo 560.000 ca ung thư đại trực tràng mới ở Trung Quốc mỗi năm, bệnh nhân lâm sàng chủ yếu mắc ung thư đại trực tràng giai đoạn II-III (tỷ lệ khoảng 70%) có nhu cầu cấp thiết hơn về theo dõi động, sau đó quy mô thị trường theo dõi động MRD của ung thư đại trực tràng tiếp cận hàng triệu người mỗi năm.
Có thể thấy kết quả nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng. Thông qua các nghiên cứu lâm sàng triển vọng quy mô lớn, công nghệ methyl hóa đa gen ctDNA máu dựa trên PCR đã khẳng định có thể được sử dụng để dự đoán và theo dõi tái phát ung thư đại trực tràng với độ nhạy, tính kịp thời và hiệu quả chi phí cao, giúp y học chính xác mang lại lợi ích cho nhiều bệnh nhân ung thư hơn. Nghiên cứu này dựa trên ColonAiQ®, một xét nghiệm methyl hóa đa gen cho ung thư đại trực tràng do KUNY phát triển, với giá trị ứng dụng lâm sàng trong sàng lọc và chẩn đoán sớm đã được xác nhận bởi một nghiên cứu lâm sàng trung tâm.
Tạp chí Gastroenterology (IF33.88), tạp chí quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực bệnh lý đường tiêu hóa năm 2021, đã báo cáo kết quả nghiên cứu đa trung tâm của Bệnh viện Trung Sơn thuộc Đại học Fudan, Bệnh viện Ung thư thuộc Đại học Fudan và các tổ chức y tế có thẩm quyền khác phối hợp với KUNYAN Biological, xác nhận hiệu suất tuyệt vời của ColonAiQ® ChangAiQ® trong việc sàng lọc sớm và chẩn đoán sớm ung thư đại trực tràng, đồng thời bước đầu khám phá tiềm năng ứng dụng trong việc theo dõi tiên lượng ung thư đại trực tràng.
Để xác nhận thêm ứng dụng lâm sàng của quá trình methyl hóa ctDNA trong phân tầng nguy cơ, hướng dẫn các quyết định điều trị và theo dõi tái phát sớm ở ung thư đại trực tràng giai đoạn I-III, nhóm nghiên cứu đã đưa 299 bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn I-III vào nghiên cứu, những người đã trải qua phẫu thuật triệt căn và lấy mẫu máu tại mỗi thời điểm theo dõi (cách nhau ba tháng) trong vòng một tuần trước khi phẫu thuật, một tháng sau phẫu thuật và trong liệu pháp bổ trợ sau phẫu thuật để xét nghiệm ctDNA máu động.
Đầu tiên, người ta thấy rằng xét nghiệm ctDNA có thể dự đoán nguy cơ tái phát ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng sớm, cả trước phẫu thuật và sau phẫu thuật sớm. Bệnh nhân dương tính với ctDNA trước phẫu thuật có khả năng tái phát sau phẫu thuật cao hơn so với bệnh nhân âm tính với ctDNA trước phẫu thuật (22,0% > 4,7%). Xét nghiệm ctDNA sau phẫu thuật sớm vẫn dự đoán được nguy cơ tái phát: một tháng sau khi cắt bỏ triệt để, bệnh nhân dương tính với ctDNA có khả năng tái phát cao gấp 17,5 lần so với bệnh nhân âm tính; nhóm nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng kết hợp xét nghiệm ctDNA và CEA cải thiện nhẹ hiệu suất phát hiện tái phát (AUC = 0,849), nhưng sự khác biệt không đáng kể so với chỉ xét nghiệm ctDNA (AUC = 0,839). Sự khác biệt không đáng kể so với chỉ xét nghiệm ctDNA (AUC = 0,839).
Phân loại giai đoạn lâm sàng kết hợp với các yếu tố nguy cơ hiện là cơ sở chính để phân tầng nguy cơ cho bệnh nhân ung thư và trong mô hình hiện tại, một số lượng lớn bệnh nhân vẫn tái phát [4] và có nhu cầu cấp thiết về các công cụ phân tầng tốt hơn vì điều trị quá mức và điều trị không đủ cùng tồn tại trong lâm sàng. Dựa trên điều này, nhóm nghiên cứu đã phân loại bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn III thành các phân nhóm khác nhau dựa trên đánh giá nguy cơ tái phát lâm sàng (nguy cơ cao (T4/N2) và nguy cơ thấp (T1-3N1)) và thời gian điều trị bổ trợ (3/6 tháng). Phân tích cho thấy bệnh nhân trong phân nhóm nguy cơ cao của bệnh nhân dương tính với ctDNA có tỷ lệ tái phát thấp hơn nếu họ được điều trị bổ trợ trong sáu tháng; trong phân nhóm nguy cơ thấp của bệnh nhân dương tính với ctDNA, không có sự khác biệt đáng kể giữa chu kỳ điều trị bổ trợ và kết quả của bệnh nhân; trong khi bệnh nhân âm tính với ctDNA có tiên lượng tốt hơn đáng kể so với bệnh nhân dương tính với ctDNA và thời gian không tái phát sau phẫu thuật (RFS) dài hơn; ung thư đại trực tràng giai đoạn I và giai đoạn II nguy cơ thấp Tất cả bệnh nhân âm tính với ctDNA không tái phát trong vòng hai năm; do đó, việc tích hợp ctDNA với các đặc điểm lâm sàng được kỳ vọng sẽ tối ưu hóa hơn nữa việc phân tầng rủi ro và dự đoán tái phát tốt hơn.

Hình 1. Phân tích ctDNA huyết tương tại POM1 để phát hiện sớm ung thư đại trực tràng tái phát
Kết quả xét nghiệm ctDNA động tiếp theo cho thấy nguy cơ tái phát cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân có xét nghiệm ctDNA động dương tính so với những bệnh nhân có ctDNA âm tính trong giai đoạn theo dõi tái phát bệnh sau điều trị dứt điểm (sau phẫu thuật triệt căn + liệu pháp bổ trợ) (Hình 3ACD) và ctDNA có thể chỉ ra khối u tái phát sớm hơn tới 20 tháng so với hình ảnh (Hình 3B), mang lại khả năng phát hiện sớm bệnh tái phát và can thiệp kịp thời.

Hình 2. Phân tích ctDNA dựa trên nhóm bệnh nhân theo chiều dọc để phát hiện tái phát ung thư đại trực tràng
“Một số lượng lớn các nghiên cứu y học chuyển dịch về ung thư đại trực tràng dẫn đầu ngành, đặc biệt là xét nghiệm MRD dựa trên ctDNA cho thấy tiềm năng to lớn trong việc cải thiện việc quản lý hậu phẫu cho bệnh nhân ung thư đại trực tràng bằng cách cho phép phân tầng nguy cơ tái phát, hướng dẫn các quyết định điều trị và theo dõi tái phát sớm.
Ưu điểm của việc lựa chọn metyl hóa DNA làm dấu hiệu MRD mới thay vì phát hiện đột biến là nó không yêu cầu sàng lọc giải trình tự toàn bộ bộ gen của mô khối u, được sử dụng trực tiếp để xét nghiệm máu và tránh kết quả dương tính giả do phát hiện đột biến soma có nguồn gốc từ mô bình thường, bệnh lành tính và tạo máu vô tính.
Nghiên cứu này và các nghiên cứu liên quan khác xác nhận rằng xét nghiệm MRD dựa trên ctDNA là yếu tố nguy cơ độc lập quan trọng nhất gây tái phát ung thư đại trực tràng giai đoạn I-III và có thể được sử dụng để giúp hướng dẫn các quyết định điều trị, bao gồm "tăng cường" và "hạ cấp" liệu pháp bổ trợ. MRD là yếu tố nguy cơ độc lập quan trọng nhất gây tái phát sau phẫu thuật đối với ung thư đại trực tràng giai đoạn I-III.
Lĩnh vực MRD đang phát triển nhanh chóng với nhiều xét nghiệm tiên tiến, có độ nhạy cao và đặc hiệu dựa trên di truyền học biểu sinh (methyl hóa DNA và phân mảnh gen) và di truyền học hệ gen (giải trình tự mục tiêu siêu sâu hoặc giải trình tự toàn bộ hệ gen). Chúng tôi kỳ vọng ColonAiQ® sẽ tiếp tục tổ chức các nghiên cứu lâm sàng quy mô lớn và có thể trở thành một chỉ số xét nghiệm MRD mới, kết hợp khả năng tiếp cận, hiệu suất cao và chi phí hợp lý, đồng thời có thể được sử dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng thường quy.”
Tài liệu tham khảo
[1] Mo S, Ye L, Wang D, Han L, Zhou S, Wang H, Dai W, Wang Y, Luo W, Wang R, Xu Y, Cai S, Liu R, Wang Z, Cai G. Phát hiện sớm bệnh phân tử còn sót lại và phân tầng nguy cơ ung thư trực tràng giai đoạn I đến III thông qua quá trình metyl hóa DNA khối u tuần hoàn. JAMA Oncol. 2023 tháng 4 năm 20.
[2] “Gánh nặng bệnh ung thư đại trực tràng ở người dân Trung Quốc: có thay đổi trong những năm gần đây không? , Tạp chí Dịch tễ học Trung Quốc, Tập 41, Số 10, tháng 10 năm 2020.
[3] Tarazona N, Gimeno-Valiente F, Gambardella V, et al. Giải trình tự thế hệ tiếp theo nhắm mục tiêu DNA khối u lưu hành để theo dõi bệnh còn sót lại tối thiểu ở ung thư đại tràng khu trú. Ann Oncol. Ngày 1 tháng 11 năm 2019;30(11):1804-1812.
[4] Taieb J, André T, Auclin E. Tinh chỉnh liệu pháp bổ trợ cho ung thư ruột kết không di căn, các tiêu chuẩn và quan điểm mới. Cancer Treat Rev. 2019;75:1-11.
Thời gian đăng: 28-04-2023
中文网站